Ngành than, khoáng sản và công cuộc bảo vệ môi trường |
Áp dụng công nghệ hiện đại giúp ngành than phát triển bền vững. |
Hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, nhiều doanh nghiệp ngành than đã đẩy mạnh đầu tư dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại, thay thế công nghệ cũ, lạc hậu, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên khoáng sản và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Năm 2019, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã hoàn thành các công trình trong Đề án bảo đảm môi trường cấp bách ngành than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (giai đoạn 2016 – 2020), trồng cây phủ xanh hơn 1.000ha bãi thải; lắp đặt 38 hệ thống quan trắc môi trường tự động. TKV cũng đã đầu tư và đưa vào vận hành 45 trạm xử lý nước thải mỏ công suất hơn 120 triệu m3 mỗi năm, bảo đảm toàn bộ nước thải hầm lò được xử lý theo tiêu chuẩn. Các đơn vị thuộc TKV cũng đầu tư máy phun sương dập bụi cao áp để tăng hiệu quả chống bụi, áp dụng giải pháp vận chuyển than bằng băng tải giảm thiểu bụi, tiếng ồn gây ảnh hưởng dân cư, đô thị.
Bên cạnh đó, TKV đã triển khai di chuyển nhiều phân xưởng, nhà máy sản xuất than ra khỏi các trung tâm, góp phần cải thiện môi trường cảnh quan và phát triển đô thị của vùng mỏ. Cụ thể là chấm dứt hoạt động Nhà máy Tuyển than Nam Cầu Trắng (quy mô rộng gần 33ha), đảm bảo an toàn môi trường khu vực sản xuất.
Trong bối cảnh khai thác than ngày càng xuống sâu, các đơn vị trong Tập đoàn đã đẩy mạnh đầu tư công nghệ, nâng cao hiệu quả khai thác than hầm lò; đầu tư hệ thống lò chợ cơ giới hóa áp dụng ở nhiều diện sản xuất khác nhau. Từ lò chợ cơ giới hóa áp dụng đầu tiên tại Công ty Than Khe Chàm (năm 2015) đến nay, Tập đoàn đã nhân rộng 10 dây chuyền đồng bộ cơ giới hóa đang hoạt động tại các đơn vị, gồm: Hà Lầm, Vàng Danh, Khe Chàm… Các lò chợ cơ giới hóa đều cho năng suất lao động tăng từ 2 – 5 lần so với lò chợ bình thường. Bình quân mỗi năm, sản lượng khai thác than bằng cơ giới hóa đạt từ 11 – 14% tổng sản lượng than hầm lò.
Với các mỏ lộ thiên giai đoạn 2015 – 2020, TKV đã đầu tư nhiều chủng loại ôtô chở đất, đá tải trọng đến 130 tấn; khai thông các mỏ lộ thiên để tạo ra những khai trường lớn hơn, từng bước băng tải hóa vận chuyển than, đất đá và sử dụng công nghệ vận tải liên hợp ôtô – băng tải tại Mỏ than Cao Sơn với công suất 20 triệu m3/năm để giảm giá thành, chi phí sản xuất và bảo vệ môi trường.
Với việc đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất theo hướng cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa trong khai thác hầm lò; đầu tư đồng bộ thiết bị công suất lớn trong khai thác lộ thiên, đã góp phần giảm tỷ lệ tổn thất tài nguyên trong khai thác hầm lò của TKV từ 23,5% xuống 20% và trong khai thác lộ thiên từ 4,9% xuống 4,3%; năng suất lao động toàn TKV tính theo giá trị tăng bình quân 12%/năm.